Thứ Hai, 30 tháng 9, 2013

Tại phòng khám tim mạch, mỗi ngày các bác sĩ thường dặn cho tất cả người bệnh đang mắc bệnh lý tim mạch: “Hãy bỏ thuốc lá càng sớm càng tốt”, trước khi chúng ta bị bệnh động mạch vành. Bởi vì nếu bạn còn hút thuốc lá kéo dài thì khi bạn bị bệnh động mạch vành, thường bạn sẽ bị hẹp cả 3 nhánh, hẹp lan tỏa, hẹp rất sớm (<50 tuổi). Hơn nữa, khi bạn bỏ thuốc lá thành công thì phải mất 3 - 15 năm, yếu tố nguy cơ đối với bệnh mạch vành mới ngang bằng người không hút thuốc. Vậy ngay từ bây giờ, nếu bạn còn trẻ tuổi “nói  không với thuốc lá” là phòng ngừa bệnh động mạch vành.



Tại sao thuốc lá gây bệnh động mạch vành?
- Thuốc lá làm tăng kết tập tiểu cầu, tăng tình trạng tắc mạch.
- Thuốc lá gây tổn hại chức năng lớp nội mạch, làm giảm tiết NO là một chất gây giãn mạch.
- Thuốc lá gây xơ vữa động mạch vì: làm tăng cholesterol LDL-C, giảm HDL-C, tăng các yếu tố gây viêm như bạch cầu, CRP, fibrinogen.
- Thuốc lá gây tăng stress oxy hóa, làm giảm các chất chống oxy hóa mà cơ thể cần thiết để bảo vệ thành mạch.
- Thuốc lá làm tăng nồng độ Epinephrine và Norepinephrine trong máu dẫn đến, tăng áp lực động mạch, tăng nhịp tim, tăng co bóp cơ tim, tăng nhu cầu oxy cơ tim.
Hậu quả hút thuốc lá dài lâu:
- Bệnh tim mạch: bệnh động mạch vành, đột quỵ, bệnh động mạch ngoại biên.
- Bệnh phổi: tạo điều kiện cho viêm phổi do phế cầu hay virút, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, hen phế quản, ung thư phổi - phế quản, gây đột tử trẻ sơ sinh.
- Bệnh khác: giảm thính lực, ung thư thực quản, ung thư bàng quang, ung thư tụy.
Bỏ thuốc lá như thế nào?
- Với thuốc lá bỏ là bỏ hẳn, đừng nên có ý nghĩa giảm từ từ số điếu hút trong ngày.
- Bỏ thuốc lá sẽ có hiện tượng tăng cân, cho nên phòng ngừa tăng cân bằng cách: ăn nhiều rau xanh, trái cây, giảm đồ ăn dầu mỡ; tăng cường vận động thể lực như chơi tennis, bơi lội, cầu lông, đi bộ nhanh, thể dục nhịp điệu, dưỡng sinh. Đừng lấy lý do tăng cân, mà hút thuốc lá lại.
- Có hai loại thuốc giúp cai nghiện thuốc lá: Chantix và Zyban, hai loại này không chứa nicotine. Chantix kích thích receptors nicotine ở não gây giảm hứng thú hút thuốc, còn Zyban gây tăng dopamine ở não (dopamine làm tăng khoái cảm). Tuy nhiên “Nghị lực từ bỏ thuốc lá của chính người hút lá quan trọng nhất”, khỏi phải lạm dụng thuốc giúp cai nghiện thuốc lá.

Chủ đề Ngày sức khỏe thế giới năm nay là Phòng ngừa tăng huyết áp. Theo thống kê, hiện thế giới có khoảng 1/4 người trên 25 tuổi bị tăng huyết áp (THA); 3/4 số người không biết mình bị THA. Ở Việt Nam, số người THA ngày càng tăng.

 Ước tính đến năm 2025, Việt Nam có 10 triệu người THA. Tai biến do THA là xuất huyết não, suy tim, suy thận... Trong khi đó, có người bị THA mãi tới khi xảy ra tai biến xuất huyết não (TBXHN) mới lần đầu tiên trong đời được đo huyết áp. Do vậy, đối với thầy thuốc, đo huyết áp phải thành một quy tắc, một phản xạ mỗi khi khám bệnh, dẫu là khám nội khoa hay ngoại khoa, sản khoa hay chuyên khoa lẻ (tai mũi họng, mắt...), nhất là đối với mọi người lớn. Đã khám bệnh mà không đo huyết áp là một thiếu sót. Với người bệnh nên nhớ: nhức đầu không phải luôn luôn do THA và THA có khi không có nhức đầu nên muốn biết bệnh THA chỉ có đo huyết áp mới biết được. Nhưng đo huyết áp 1 lần thấy con số bình thường thì chưa chắc đã là không có bệnh THA. Nếu bệnh ở giai đoạn đầu thì con số huyết áp chỉ tăng từng lúc rồi nói chung có thể trở lại bình thường. Do vậy phải đo huyết áp nhiều lần, ít nhất là 2 lần cách nhau một tuần.

 Cần thường xuyên kiểm tra huyết áp.nh: ĐT
Để kiểm soát huyết áp: Nếu bệnh nhân đã chẩn đoán bị THA thì cần đo huyết áp vào những thời điểm sau:  Vào những khi nhức đầu, bất cứ do nguyên nhân gì (thời tiết, kém ngủ, cáu gắt).
 Trước và ngay sau một công việc căng thẳng gay go.
 Trước và sau một gắng sức thể lực.
 Đo dày lần hơn; nếu đang chọn liều lượng thuốc giảm áp cho thích hợp hoặc huyết áp đang có xu hướng lên dần hoặc dao động lớn (quá 30mmHg trong ngày) đáng ngại (về mặt dọa xuất huyết não) hơn trường hợp THA nhưng ổn định. Các cơn dao động huyết áp còn đáng ngại hơn nếu là huyết áp vọt lên ngay sau khi vừa mới tụt xuống thấp.
Tuy nhiên, bệnh có thể phòng ngừa bằng điều chỉnh ăn uống. Không ăn mặn, không hút thuốc, không ăn nhiều chất béo, chất chứa nhiều cholesterol, hạn chế bia rượu, làm việc và nghỉ ngơi hợp lý, không để stress... Người bị bệnh tiểu đường, gút cần tuân thủ kiểm soát và điều trị bệnh. THA là bệnh mạn tính, do vậy, cần điều trị lâu dài nếu chúng ta khống chế được huyết áp dưới mức 140/90mmHg sẽ hạn chế được tai biến trên. 

Chủ Nhật, 29 tháng 9, 2013

Đột tử xuất hiện ngày càng nhiều ở người trẻ tuổi và một trong những nguyên nhân thường gây đột tử nhất là do tim. Trong hầu hết các trường hợp, đột tử do tim là do nhồi máu cơ tim, rối loạn nhịp tim như nhịp nhanh thất hay rung thất. Sự khởi phát của nhịp nhanh thất hoặc rung thất nhanh chóng làm tim ngừng đập và thường sẽ đưa đến tử vong nếu không cấp cứu kịp.

Biểu hiện của bệnh nhồi máu cơ tim
Biểu hiện thường gặp của nhồi máu cơ tim điển hình là cơn đau ngực trái dữ dội, khởi phát khi bệnh nhân gắng sức, kéo dài 15 - 30 phút. Cơn đau lan lên cổ hay hàm dưới bên trái hoặc mặt trong cánh tay trái, đôi khi đau ngay thượng vị làm bệnh nhân thường nhầm lẫn với cơn đau dạ dày. Cơn đau tăng lên khi vận động và giảm nếu nghỉ ngơi hay dùng thuốc nitroglycerin ngậm dưới lưỡi. Đôi khi cơn đau không rõ ràng, nhất là bệnh nhân đái tháo đường, lớn tuổi, bệnh nhân chỉ cảm thấy ngộp thở, nặng ngực. Triệu chứng đi kèm thường là vã mồ hôi và khó thở, mệt nhiều, buồn nôn, nôn, đánh trống ngực.

Hãy từ bỏ rượu bia, thuốc lá và năng vận động để cứu lấy quả tim của bạn
Nguy cơ đột tử sau đau tim
Theo các chuyên gia, nguy cơ dài hạn của tử vong sau đau tim trên một người đã được điều trị ổn định từ một tháng trở lên là khoảng 1 - 2% mỗi năm sau đó. Tuy nhiên, đối với một số người nguy cơ cao hơn đáng kể. Nguy cơ cao nhất khoảng 20% xảy ra ở những người từng bị ngưng tim nhưng đã được cứu sống.
Nguy cơ tương đối cao ở những bệnh nhân đã bị nhồi máu cơ tim diện rộng để lại sẹo trên cơ tim lớn. Một trong những phương pháp đánh giá tốt sẹo này là siêu âm xem chức năng tống máu của tim được gọi là phân suất tống máu, bình thường từ 50% trở lên. Sẹo càng lớn phân suất tống máu càng kém, nếu trên 40% thì nguy cơ tử vong ít hơn, nếu dưới 30% nguy cơ cao hơn nhiều.
Làm gì để giảm nguy cơ đột tử sau đau tim?
Nguy cơ đột tử sau đau tim có thể được làm giảm đáng kể nhờ tuân thủ chỉ dẫn theo điều trị của bác sĩ là dùng thuốc điều trị ức chế bêta và ức chế men chuyển, cũng như thuốc statin. Các thuốc trên làm giảm nguy cơ đột tử nhờ làm giảm cơ hội phát triển suy tim và đau tim tái phát. Nếu bệnh nhân thuộc diện có nguy cơ cao mặc dù đã được điều trị bằng thuốc có thể được xem xét để cấy một máy phá rung.
Có thể thay đổi yếu tố nguy cơ
Có những yếu tố nguy cơ của bệnh động mạch vành mà không thay đổi được như tuổi, giới tính, tiền sử gia đình..., nhưng người trẻ tuổi có thể phòng ngừa các bệnh lý về tim mạch để hạn chế nguy cơ đột quỵ bằng cách thay đổi các yếu tố nguy cơ như: hút thuốc lá, lối sống ít vận động, tăng huyết áp, rối loạn mỡ máu, uống quá nhiều rượu bia...
Khi có người ngưng tim, cần nhanh chóng gọi ngay trung tâm cấp cứu gần nhất và sơ cứu bằng cách xoa bóp tim ngoài lồng ngực, đồng thời hà hơi thổi ngạt cho bệnh nhân trước khi chuyển đến bệnh viện để được điều trị thích hợp.

Động mạch chủ bụng là mạch máu lớn, từ tim chạy dọc theo gần cột sống, xuống gần bụng dưới thì phân thành hai nhánh xuống chân, cung cấp máu cho phần bụng, vùng chậu và 2 chân. Phình động mạch chủ bụng là tình trạng động mạch chủ bụng bị giãn không hồi phục, phình lên như một trái bóng hoặc cái túi. Bình thường, động mạch chủ bụng có đường kính khoảng 2cm, khi phình động mạch, đường kính của nó lên trên 3cm hoặc hơn.

Ai dễ mắc bệnh?
Cấu tạo động mạch chủ có 3 lớp: áo trong hay nội mạc, áo giữa và áo ngoài. Nhờ cấu tạo đặc biệt của lớp giữa: chủ yếu là sợi chun và sợi keo nên động mạch chủ bụng có tính đàn hồi và bền vững cao, không bị giãn ra dưới áp lực máu bơm từ tim ra. Nếu thoái hóa, tổn thương cấu trúc của thành động mạch, sẽ làm yếu thành động mạch chủ, mất tính đàn hồi, giảm sức bền và xảy ra phình động mạch chủ.

Một số kiểu tổn thương trong phình động mạch chủ bụng.
Những đối tượng sau đây dễ bị phình động mạch chủ: nam trên 50 tuổi; bệnh nhân bị tăng huyết áp lâu năm; vữa xơ động mạch; tăng cholesterol; béo phì; bệnh khí phế thũng; rối loạn bẩm sinh (hội chứng Ehlers - Danlos, hội chứng Marfan); nhiễm khuẩn nhất là bệnh giang mai; chấn thương; có bố mẹ mắc bệnh; người nghiện hút thuốc lá; hoại tử thành động mạch do thuốc; loạn sản tổ chức xơ; thoái hóa thành động mạch liên quan đến thai nghén; phình động mạch sau hẹp động mạch; sau chấn thương và vết thương; sau phẫu thuật nối thông mạch máu, sau phẫu thuật ghép đoạn động mạch...
Cảnh giác phát hiện bệnh 
Thông thường, bệnh nhân bị phình động mạch sẽ phát triển dần trong nhiều năm và không gây ra triệu chứng rõ rệt. Bệnh chỉ được phát hiện tình cờ khi đi khám bệnh. Một số bệnh nhân có thể sờ thấy một khối u, thường ở trên rốn, nảy theo nhịp đập của tim. Nhưng ở bệnh nhân béo phì hoặc có túi phình chưa lớn lắm, triệu chứng này không dễ phát hiện, nên bệnh nhân thường bỏ qua. Khi xuất hiện những cơn đau bụng mới hay đau tăng lên, xuất hiện đột ngột, có thể báo trước sự giãn thêm hoặc đe dọa vỡ phình. Cơn đau bụng do phình động mạch có đặc điểm là đau liên miên không dứt, dữ dội và khu trú ở sau lưng hay phần bụng dưới, một số người có cảm giác đau lan xuống vùng bẹn, ra vùng hông, hay xuống chân. Nếu khối phình mạch lớn có thể gây chèn ép vào các cơ quan lân cận như: chèn vào tá tràng gây hẹp môn vị, chèn vào niệu quản trái gây cơn đau quặn thận và ứ nước thận trái gây nhiễm khuẩn đường tiểu với các triệu chứng sốt, rối loạn tiểu tiện... Phình động mạch chủ bụng thường được chẩn đoán bằng các xét nghiệm: siêu âm bụng, siêu âm Doppler mạch máu động mạch chủ bụng, chụp CTscan bụng, chụp cộng hưởng từ, chụp cản quang số xóa nền mạch máu.
Khó phát hiện nhưng dễ phòng ngừa 2
Hình ảnh phình động mạch chủ bụng trên phim chụp cản quang số xóa nền mạch máu.
Biến chứng nguy hiểm
Phình động mạch chủ bụng có thể gây một số biến chứng nguy hiểm sau: rối loạn tưới máu khu vực và làm tăng nguy cơ hình thành huyết khối, hậu quả là huyết khối này di chuyển theo dòng máu sẽ gây tắc mạch, tổn thương các cơ quan như tắc mạch chi, đột quỵ do tắc mạch não, nhồi máu cơ tim do tắc mạch vành.
Do vách của túi phình yếu hơn chỗ khác nên có thể vỡ túi phình bất cứ lúc nào, đây là biến chứng nguy hiểm nhất. Các triệu chứng vỡ túi phình gồm: đau bụng đột ngột và ngất xỉu là dấu hiệu cho thấy túi phình động mạch đã vỡ. Bệnh nhân trong trạng thái lo âu, buồn nôn và nôn, vã mồ hôi, tim đập nhanh, thành bụng gồng cứng, nôn máu ồ ạt do vỡ vào tá tràng... Do ở gần tim và có kích thước lớn nên khi túi phình vỡ, máu sẽ thoát ra ngoài ồ ạt, gây tình trạng mất máu trầm trọng, có thể trụy tim mạch và tử vong nhanh chóng.
Điều trị và phòng bệnh
Điều trị phình động mạch chủ bụng chủ yếu bằng phương pháp phẫu thuật. Song, tình trạng sức khỏe của bệnh nhân thường kém do tuổi cao sức yếu, kèm theo các bệnh lý tim mạch và các bệnh nội khoa mạn tính khác, dinh dưỡng kém... Ca phẫu thuật thường rất nặng nề, mất máu nhiều, đường mổ kéo dài... nên nguy cơ của ca mổ rất lớn. Sau mổ, bệnh nhân dễ có biến chứng và chậm hồi phục. Do đó, các trường hợp túi phình dọa vỡ phải mổ cấp cứu, tỷ lệ thất bại trong và sau mổ còn rất cao. Mặt khác, sau khi phẫu thuật để điều trị, quá trình thoái hóa mạch máu ở bệnh nhân vẫn tiếp diễn, khiến bệnh rất dễ tái phát nếu không được điều trị dự phòng.
Phòng bệnh chủ yếu là kiểm soát các yếu tố nguy cơ như điều trị tích cực bệnh tăng huyết áp và rối loạn lipid máu; dùng thuốc Đông y có khả năng điều trị kiểm soát, ngăn ngừa tối đa bệnh lý phình động mạch chủ nhờ những vị thuốc có tác dụng hạ huyết áp, hạ mỡ máu và tăng sức bền thành mạch máu. Điều trị tích cực các bệnh là nguyên nhân dẫn đến phình mạch đã nói ở trên như: tăng huyết áp, vữa xơ động mạch, tăng cholesterol, béo phì, khí phế thũng, nhiễm khuẩn, bỏ hút thuốc lá, hạn chế uống rượu bia...

Thứ Sáu, 27 tháng 9, 2013

Bệnh viêm cơ tim (VCT) có thể diễn biến lành tính và tự khỏi, cũng có thể diễn biến nặng dẫn đến tử vong. VCT là nguyên nhân gặp ở 12% số bệnh nhân trẻ tuổi bị đột tử. VCT cũng là một trong những nguyên nhân chính của bệnh cơ tim giãn và bệnh cơ tim loạn nhịp thất phải. Tuy nhiên, khả năng chẩn đoán VCT thường thấp vì bệnh nhân không nhập viện, một số trường hợp chỉ được phát hiện sau khi bệnh nhân tử vong.

Nguyên nhân gây VCT: Nguyên nhân thường gặp nhất của VCT là do virut. Các loại virut thường gặp là Coxsackievirus B, Adenovirus (virut cúm), Parvovirus B19, Epstein-Barr virus, sởi, HIV... Một số loại vi khuẩn cũng có thể gây VCT như tụ cầu, liên cầu. Một số trường hợp khác, nấm và ký sinh trùng cũng có thể gây VCT. VCT cũng có thể gặp do một số thuốc gây ra, bao gồm các kháng sinh như penicillin, sulfamid. Ngoài ra, các bệnh hệ thống như lupus, viêm hạt cũng có thể gây ra VCT.
Cơ chế của VCT không phải do virut hay vi khuẩn tác động trực tiếp lên tế bào cơ tim mà thông qua tác dụng của hệ miễn dịch của chính bệnh nhân. Đầu tiên, các virut nhân lên, kích hoạt hoạt động của tế bào bạch cầu lympho B của người bệnh làm các tế bào này tiết ra các tự kháng thể và các chất gây viêm. Sau đó, các tự kháng thể và các chất gây viêm này tác động vào tế bào cơ tim gây  VCT.

Hình ảnh viêm cơ tim với vùng cơ tim bị sung huyết (đỏ).      
Dấu hiệu VCT
VCT thể nhẹ có thể tự khỏi, đôi khi bệnh nhân không phát hiện ra mình bị VCT. Tuy nhiên, VCT có thể gặp thể nặng, bệnh nhân có thể có rối loạn các nhịp tim nguy hiểm như rung thất, nhịp nhanh thất, block nhĩ thất hoàn toàn… hoặc có biến chứng suy tim cấp, phù phổi cấp hoặc thậm chí là sốc tim. Những trường hợp VCT nặng tiên lượng bệnh nhân rất nặng nề, thậm chí tử vong.
Dấu hiệu của VCT không đặc hiệu, trước khi có triệu chứng rầm rộ thì người bệnh có thể có các biểu hiện chung giống như nhiễm cúm với các triệu chứng mệt mỏi, đau mỏi khớp, đau đầu, đau họng, sốt, tiêu chảy. Giai đoạn sớm này thường không được phát hiện do người bệnh nghĩ mình mắc cúm. Sau đó sẽ xuất hiện các triệu chứng ở tim mạch. Ở người lớn có thể gặp khó thở, đặc biệt là khó thở khi gắng sức, đau  ngực, hồi hộp trống ngực, thậm chí là ngất. Ở trẻ em có thể thấy tím môi, thở nhanh, hay mệt thỉu. Do đó, khi có triệu chứng nhiễm virut mà có đau ngực nhiều hay thấy tim đập nhanh, loạn nhịp thì cần phải đi khám sớm.
Chẩn đoán VCT có thể khó khăn do hiện chưa có xét nghiệm đặc hiệu và có thể nhầm lẫn với các bệnh lý khác, đặc biệt nếu gặp ở người trung niên hay cao tuổi. Trong thực hành lâm sàng, việc chẩn đoán VCT dựa vào triệu chứng đau, các bằng chứng viêm, điện tâm đồ có biến đổi đoạn ST-T và có rối loạn vận động vùng ở toàn bộ cơ tim trên siêu âm tim. Hiện nay, chụp cộng hưởng từ tim (MRI) với các dấu hiệu thâm nhiễm viêm và phù tế bào có giá trị rất tốt trong chẩn đoán VCT.
Tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán VCT chủ yếu dựa vào sinh thiết cơ tim. Tuy nhiên, việc sinh thiết cơ tim có nhiều nguy cơ và ít được thực hiện.
Điều trị chủ yếu bằng thuốc
Hiện nay, chưa có biện pháp điều trị đặc hiệu cho VCT. Các biện pháp điều trị chủ yếu là điều trị hỗ trợ và điều trị triệu chứng. Trường hợp nhẹ, bệnh nhân được theo dõi, làm xét nghiệm men tim và siêu âm đánh giá chức năng tim. Trường hợp nặng, cần được điều trị suy tim với thuốc lợi tiểu, ức chế men chuyển, vận mạch hay thậm chí dùng các thiết bị hỗ trợ tim phổi.
Cũng chưa có biện pháp dự phòng đặc hiệu cho VCT. Phòng VCT chủ yếu là các biện pháp dự phòng nhiễm virut như tránh nhiễm lạnh, giữ vệ sinh, luyện tập thể dục thể thao...     

“Mới thấy đó mà đã chết đó” là cách nói rất dân dã trong cộng đồng để diễn tả sự nhanh chóng, đột ngột cướp đi sinh mạng của không ít người trong thời gian gần đây.        Hiện nay đột tử xuất hiện với tần suất ngày càng nhiều và xảy ra cả ở nhóm người trẻ tuổi.

Đột tử là bệnh lý tim mạch
Một trong những nguyên nhân thường gây ra đột tử là do bệnh lý tim mạch. Khi đột tử xảy ra, thường không có các dấu hiệu báo trước mà rất thường gặp ở những người có bệnh lý về tim mạch từ trước đó như nhồi máu cơ tim, rối loạn nhịp tim như nhịp nhanh thất hay rung thất. Sự khởi phát của nhịp nhanh thất hoặc rung thất nhanh chóng làm tim ngừng đập và thường sẽ đưa đến tử vong nếu không được cấp cứu kịp thời.
Những biểu hiện thường gặp của cơn nhồi máu cơ tim điển hình là đau ngực trái dữ dội, xảy ra khi người bệnh gắng sức, cơn đau kéo dài khoảng 15 - 30 phút. Khởi đầu đau ở ngực trái sau đó cơn đau lan lên cổ, hàm dưới bên trái, mặt trong cánh tay trái, đôi khi đau ngay thượng vị làm cho người bệnh dễ nhầm tưởng với bệnh đau dạ dày. Cơn đau tăng lên khi vận động và giảm đi nếu nghỉ ngơi hay dùng thuốc nitroglycerin ngậm dưới lưỡi. Đôi khi cơn đau không rõ ràng, nhất là ở người có bệnh đái tháo đường, người lớn tuổi, Khi đó, người bệnh chỉ cảm nhận rằng bị  ngộp thở, nặng ngực. Triệu chứng đi kèm thường là vã mồ hôi, khó thở, mệt nhiều, buồn nôn, nôn, đánh trống ngực.

Xơ vữa mạch máu dễ dẫn đến đột tử
Hầu hết người bệnh đột tử do tim là trước đó đã xảy ra nhồi máu cơ tim trong khoảng thời gian từ vài tuần đến vài tháng, đôi khi là vài năm mà người bệnh không biết, hay đã biết và mặc dù đã được điều trị kịp thời nhưng đột tử vẫn có thể xảy ra.
Nếu tổn thương ít thì cơ tim có thể lành sau một thời gian nhưng chúng để lại một vết sẹo vĩnh viễn, vết sẹo này của tim có thể trở nên không ổn định “điện” và sự không ổn định “điện” này có thể gây nên rối loạn nhịp tim và đe dọa tính mạng người bệnh. Những rối loạn nhịp này thường xảy ra đột ngột, không hề có triệu chứng báo trước và người bệnh có thể bị ngưng tim đột ngột mặc dù đã được điều trị đúng theo hướng dẫn của bác sĩ.
Nhìn chung nguy cơ dài hạn của tử vong sau bệnh lý tim mạch trên một người đã được điều trị ổn định là khoảng 1 - 2% và nguy cơ cao nhất khoảng 20% xảy ra ở những người đã từng bị ngưng tim nhưng đã được cứu sống.
Nguy cơ tương đối cao ở những người bệnh đã bị nhồi máu cơ tim diện rộng và để lại sẹo lớn trên cơ tim. Một trong những phương pháp dùng để đánh giá sẹo tốt hay không là siêu âm, trong đó khảo sát xem chức năng tống máu của tim hay còn được gọi là phân suất tống máu có bình thường không (bình thường là từ 50% trở lên). Nếu sẹo càng lớn thì phân suất tống máu càng kém, nếu trên 40% thì nguy cơ tử vong ít hơn, nếu dưới 30% nguy cơ cao hơn nhiều.
Nguy cơ đột tử sau bệnh lý tim mạch có thể được làm giảm đáng kể nhờ tuân thủ sự chỉ dẫn và phương pháp điều trị của bác sĩ là dùng thuốc điều trị ức chế bêta và ức chế men chuyển, cũng như thuốc statin. Các thuốc trên làm giảm nguy cơ đột tử nhờ làm giảm cơ hội phát triển suy tim và đau tim tái phát. Nếu người bệnh thuộc diện có nguy cơ cao mặc dù đã được điều trị bằng thuốc có thể được xem xét để cấy một máy phá rung.
Thay đổi lối sống, giảm các yếu tố nguy cơ
Ngoài những yếu tố nguy cơ của bệnh động mạch vành mà ta không thay đổi được như tuổi, giới tính, tiền sử gia đình thì cần phải  thay đổi những yếu tố nguy cơ để đề phòng đột quỵ như:
- Hút thuốc lá: thuốc lá làm tăng nguy cơ mắc bệnh động mạch vành tăng lên gấp hai lần người không hút.
- Ít vận động: những người không luyện tập thể dục thường xuyên sẽ có tuổi thọ thấp hơn những người luyện tập thường xuyên mỗi ngày trên 30 phút.
- Tăng huyết áp: ở người bệnh tăng huyết áp, thành mạch máu thường bị xơ vữa nên rất kém đàn hồi. Do đó để tống máu đi, tim phải tốn công nhiều hơn. Hậu quả là cơ tim sẽ dày lên và cứng hơn, sự cố gắng liên tục sẽ làm tim suy yếu. Do áp lực tác động lên thành động mạch tăng cùng với sự xơ vữa, mạch máu dễ bị vỡ làm tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim.
- Đái tháo đường: theo một nghiên cứu, hơn 65% số người đái tháo đường bị tử vong vì bệnh tim mạch.
- Béo phì: người béo phì dễ bị tăng cholesterol máu, tăng huyết áp và là nguy cơ của bệnh tim mạch.
- Rối loạn mỡ trong máu: ở người trưởng thành, nếu nồng độ cholesterol trong máu tăng cao quá 10% giá trị bình thường thì nguy cơ bị các biến chứng tim mạch sẽ tăng thêm 30%.
- Stress: có tác dụng làm tăng nhịp tim và tăng huyết áp. Người bệnh tim mà liên tục chịu ảnh hưởng của stress thì tần số cơn đau thắt ngực tăng lên.
- Uống quá nhiều rượu bia: làm tăng huyết áp, tăng triglicerid máu, gây nguy cơ nhồi máu cơ tim và đột quỵ.                 

Thứ Năm, 26 tháng 9, 2013

Suy giãn tĩnh mạch chân không nguy hiểm đến tính mạng, chỉ gây khó chịu, đau đớn và mất thẩm mỹ, cản trở sinh hoạt. Tuy nhiên, biến chứng của bệnh này là sự hình thành các cục máu đông trong lòng tĩnh mạch, các cục máu này có thể gây tắc mạch máu tại chỗ hoặc di chuyển theo dòng máu và gây tắc mạch chỗ khác, trong đó nguy hiểm nhất là tắc mạch phổi, có thể dẫn đến suy hô hấp và tử vong.

Vì sao mắc bệnh?
Bệnh suy giãn tĩnh mạch chi chưa được xác định rõ ràng nguyên nhân. Tuy nhiên, một số yếu tố nguy cơ suy giãn tĩnh mạch chân gây ra do tổn thương chức năng các van một chiều của hệ tĩnh mạch ngoại biên đã được xác nhận như: quá trình thoái hóa do tuổi tác; do tư thế sinh hoạt hay làm việc phải đứng hay ngồi một chỗ lâu, ít vận động, phải mang vác nặng... tạo điều kiện cho máu bị dồn xuống hai chân, làm tăng áp lực trong các tĩnh mạch ở chân, lâu ngày sẽ gây tổn thương các van tĩnh mạch một chiều. Khi các van này bị suy yếu sẽ giảm khả năng ngăn chặn luồng máu chảy ngược xuống dưới do tác dụng của trọng lực, dẫn đến ứ máu ở hai chân; các yếu tố nguy cơ như: chế độ làm việc (phải đứng nhiều, làm việc trong môi trường ẩm thấp), béo phì, chế độ ăn ít chất xơ và vitamin...

 Hình ảnh giãn tĩnh mạch nổi trên da.
Dấu hiệu nhận biết
Ở giai đoạn đầu, các triệu chứng của bệnh suy tĩnh mạch chi dưới thường mờ nhạt và thoáng qua, người bệnh có biểu hiện: đau chân, nặng chân, mỏi chân, phù nhẹ khi đứng lâu ngồi nhiều, vọp bẻ, chuột rút vào buổi tối, châm chích, dị cảm như kiến bò vùng cẳng chân về đêm. Những triệu chứng này thường không rõ ràng nên người bệnh ít chú ý và dễ bỏ qua.
Giai đoạn tiến triển bệnh sẽ gây phù chân, có thể phù ở mắt cá hay bàn chân, đôi khi người bệnh chỉ có cảm giác mang giày dép chật hơn bình thường. Vùng cẳng chân xuất hiện chàm da, thay đổi màu sắc da do máu ứ ở tĩnh mạch lâu ngày làm rối loạn biến dưỡng. Các tĩnh mạch trương phồng lên gây cảm giác nặng, đau nhức chân, máu thoát ra ngoài mạch gây phù chân, nặng hơn thì có thể thấy các búi tĩnh mạch trương phồng nổi rõ trên da, các mảng bầm máu trên da...
Các tĩnh mạch giãn to nếu không được điều trị, lấy bỏ sẽ có nguy cơ tạo lập cục máu đông, gây viêm tĩnh mạch nông huyết khối. Các cục máu đông tạo lập trong lòng mạch có thể bong ra, theo dòng máu trôi ngược lên phổi, làm tắc mạch phổi, nguy cơ tử vong cao. Các tĩnh mạch giãn to dần, đến một lúc nào đó sẽ bị vỡ khi chấn thương hay va chạm nhẹ, gây xuất huyết, bầm máu. Sự rối loạn biến dưỡng da ở cẳng chân lâu ngày sẽ dẫn đến chàm, tăng sắc tố da và loét chân do ứ đọng. Tình trạng loét chân do tĩnh mạch là một biến chứng rất khó điều trị.
Suy tĩnh mạch chi dưới và cách điều trị 2
 Tĩnh mạch bình thường và tĩnh mạch bị suy.
Có cách nào điều trị?
Có 3 biến chứng mà người mắc bệnh suy và giãn tĩnh mạch chân có thể gặp phải là huyết khối (máu đông), xuất huyết (chảy máu) và loét chân.
Việc điều trị bệnh suy tĩnh mạch mạn tính chi dưới đòi hỏi sự kết hợp giữa dùng thuốc, phẫu thuật và vật lý trị liệu tại các trung tâm chuyên sâu về bệnh này.
Điều trị nội khoa với các thuốc làm bền thành mạch nhưng phần lớn chỉ có tác dụng trong giai đoạn đầu của giãn tĩnh mạch. Một số thầy thuốc còn áp dụng phương pháp tiêm gây xơ tại chỗ với các thuốc làm xơ hóa lòng mạch máu.
Phẫu thuật bằng phương pháp Stripping lấy bỏ các tĩnh mạch nông bị giãn bằng một dụng cụ chuyên dùng cho phép rút các tĩnh mạch và phương pháp Chivas lấy các đoạn tĩnh mạch bị giãn của hệ thống xuyên, đây là phương pháp điều trị khá triệt để, có tỷ lệ tái phát thấp. Phương pháp làm lạnh với nitơ lỏng -90oC để làm nghẹt lòng tĩnh mạch qua một ống thông trong lòng tĩnh mạch. Phương pháp này cho tỷ lệ tái phát khá cao. Ngoài ra, hiện nay người ta còn áp dụng phương pháp can thiệp nội mạch loại bỏ tĩnh mạch suy bằng tiêm chất tạo bọt; điều trị bằng laser.
Một phương pháp mới được Viện Tim mạch Quốc gia và Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM bắt đầu ứng dụng trong năm 2012 là loại bỏ tĩnh mạch suy bằng năng lượng sóng có tần số radio. Đây là một phương pháp có nhiều ưu điểm, hơn hẳn các phương pháp kinh điển, bởi phương pháp này có tỷ lệ thành công rất cao, điều trị triệt để được tĩnh mạch bị suy, an toàn và ít tai biến.
Cách phòng ngừa bệnh

Suy giãn tĩnh mạch là bệnh lý mang tính xã hội, liên quan nhiều đến chế độ ăn uống và làm việc. Vì vậy, khuyến cáo chung là nên tránh đứng lâu, ngồi nhiều, nhất là nhân viên văn phòng, không nên ngồi làm việc một chỗ liên tục trong suốt buổi làm việc, tranh thủ giải lao, đi lại vận động vài phút trong khoảng thời gian làm việc từ 30 - 60 phút. Trong lúc ngồi làm việc, có thể phối hợp các bài tập vận động chân như co duỗi các ngón chân, gập duỗi cổ chân, nhón gót... để máu lưu chuyển tốt hơn. Ăn nhiều rau quả, chất xơ, vitamin. Nên tập thể dục để giảm cân như: bơi lội, đi xe đạp, tập dưỡng sinh.
Phần lớn những bệnh nhân đến khám tại các khoa tim mạch của các bệnh viện và các phòng khám đa khoa đều có cao huyết áp. Tuy nhiên, có một số không nhỏ thường xuyên bị huyết áp thấp. Vậy hạ huyết áp có nguy hiểm không?
Câu hỏi này không chỉ đặt ra cho bệnh nhân mà cả nhiều thầy thuốc không chuyên khoa nữa.

Thế nào là huyết áp bình thường?
Huyết áp trung bình của mỗi người dao động trong khoảng từ 110 - 120mmHg đối với huyết áp tối đa và từ 70 - 80mmHg với huyết áp tối thiểu. Khi huyết áp tối đa dưới 100mmHg và huyết áp tối thiểu dưới 60mmHg, bệnh nhân rơi vài tình trạng hạ huyết áp. Có hai tình trạng hạ huyết: hạ huyết áp cấp hay xảy ra với những bệnh nhân cấp cứu vì chấn thương gây mất máu nhiều, tiêu chảy mất nước, suy tim hay bị bệnh nội khoa khác. Những bệnh nhân này phải được nhập viện cấp cứu và tùy theo nguyên nhân gây hạ huyết áp mà thầy thuốc cho chỉ định điều trị phù hợp: truyền dịch, truyền máu, thuốc vận mạch hay thuốc trợ tim…

Người huyết áp thấp nên ăn các loại thức ăn giàu năng lượng và giàu vitamine cũng như các yếu tố vi lượng như: vitamin A, kẽm, magne...
Hạ huyết áp mạn tính: ở những người này huyết áp thường xuyên thấp hơn 100mmHg đối với huyết áp tối đa. Bệnh nhân có thể có hoặc không có bất kỳ một sự khó chịu nào. Rất nhiều người chỉ phát hiện tình cờ trong đợt khám sức khỏe định kỳ hay được đo huyết áp khi đi khám một bệnh nào khác không liên quan đến tim mạch.
Hạ huyết áp có nguy hiểm không?
Tất nhiên, nếu bệnh nhân  rơi vào tình trạng hạ huyết áp cấp thì rất nguy hiểm và cần được nhập bệnh viện để điều trị trong phòng săn sóc đặc biệt. Truyền dịch và máu cũng như các dung dịch thay thế máu là phương pháp điều trị đầu tiên được áp dụng cho hầu hết các bệnh nhân.
Còn tình trạng hạ huyết áp mạn tính thì hầu như không có gì là quá nguy hiểm cả. Thậm chí có ngưới còn cho rằng: những người bị huyết áp thấp còn sống thọ hơn những người có huyết áp bình thường. Và thực tế trong thực hành bệnh viện hàng ngày, chúng tôi cũng như nhiều thầy thuốc khác cũng có chung một nhận định như vậy.
Những người thực sự bị huyết áp thấp mạn tính thường phàn nàn với mọi người và với thầy thuốc là hay buồn ngủ, mỏi mệt, chóng mặt, hoa mắt hoặc thỉnh thoảng bị ngất xỉu. Đặc biệt là khi thay đổi tư thế đột ngột. Các triệu chứng này xuất hiện do giảm lưu lượng máu ở não, tim, gan và các cơ quan khác trong cơ thể.
Tình trạng hạ huyết áp mạn tính hay xảy ra ở những người làm việc quá sức, bị stress, rối loạn nội tiết, suy dinh dưỡng, đái tháo đường hay bị bệnh thần kinh ngoại vi… Nếu tình trạng hạ huyết áp mạn tính kéo dài và gây nhiều khó chịu, thậm chí phải nhập bệnh viện cấp cứu thì nên đi khám ở những thầy thuốc chuyên khoa tim mạch và nội tiết để tìm ra nguyên nhân và có phương pháp điều trị triệt để.
Người bệnh hạ huyết áp mạn tính nên ăn gì?
Việc đầu tiên là nên có chế độ làm việc và nghỉ ngơi hợp lý. Nên ăn các loại thức ăn giàu năng lượng và giàu vitamine cũng như các yếu tố vi lượng như: vitamin A, kẽm, magne… Có người cho rằng, bệnh nhân nên ăn mặn một chút để làm tăng khối lượng tuần hoàn trong cơ thể nhờ tác dụng giữ nước của muối. Tuy nhiên, điều này cũng rất nguy hiểm vì sẽ gây tăng huyết áp khi nằm.
Chọn một môn thể thao phù hợp với sức khỏe như đi bộ, bơi lội hay tập yoga cũng rất tốt cho bệnh nhân bị hạ huyết áp mạn tính. Việc uống đủ nước, nhất là khi trời nắng nóng cũng góp phần làm giảm nguy cơ hạ huyết áp ở một số người.
Và một điều rất quan trọng mà nhiều người trong chúng ta không mấy quan tâm, đó là nên đi khám kiểm tra sức khỏe định kỳ mỗi 6 tháng để phát hiện những trục trặc về sức khỏe để có hướng điều chỉnh ngay từ lúc đầu. Đây là khuynh hướng mới nhằm phòng bệnh tật trong một xã hội hiện đại.

Trứng có giá trị dinh dưỡng đặc biệt cao. Trong trứng có đủ chất đạm, chất béo, vitamin, chất khoáng, các men và hormon. Tỷ lệ các chất dinh dưỡng trong trứng tương quan với nhau rất thích hợp, cân đối.

Thành phần của trứng có lòng đỏ và lòng trắng. Lòng đỏ là thành phần quan trọng nhất của trứng trong đó tập trung phần chủ yếu các chất dinh dưỡng. Lòng đỏ trứng gà có 13,6% đạm, 29,8% béo và 1,6% chất khoáng. Chất đạm trong lòng đỏ trứng có thành phần các axit amin tốt nhất và toàn diện nhất. Lòng trắng chiếm phần lớn là nước, có 10,3% chất đạm, chất béo và chất khoáng rất thấp. Chất đạm của lòng đỏ chủ yếu thuộc loại đơn giản và nằm ở trạng thái hòa tan, chất đạm của lòng trắng chủ yếu là albumin và cũng có thành phần các axit amin tương đối toàn diện. 

Người tăng huyết áp có cần kiêng ăn trứng? 2
Chất lecithin trong trứng sẽ điều hòa cholesterol, ngăn ngừa xơ vữa động mạch.
Chất đạm của trứng là nguồn rất tốt các axit amin cần thiết có nhiều vai trò quan trọng trong cơ thể, đặc biệt cần thiết cho sự phát triển cả về cân nặng và chiều cao của trẻ. Trứng có nguồn chất béo rất quý đó là lecithin. Lecithin thường có ít ở các thực phẩm khác, nó tham gia vào thành phần các tế bào và dịch thể của tổ chức đặc biệt là tổ chức não. Trứng cũng chứa lượng cholesterol đáng kể (600mg cholesterol/100g trứng gà), nhưng trứng cũng có tương quan thuận lợi giữa lecithin và cholesterol. Do vậy, lecithin sẽ phát huy vai trò điều hòa cholesterol ngăn ngừa quá trình xơ vữa động mạch và đào thải cholesterol ra khỏi cơ thể. Trứng cũng là nguồn cholin quý ít thực phẩm nào sánh bằng, chất cholin sẽ được gan chuyển thành axetylcholin là chất dẫn truyền thần kinh giúp làm tăng trí nhớ. Nếu ăn nhiều trứng sẽ làm tăng cholesterol máu nhưng mức tăng thực ra là rất nhỏ mà chính chất béo bão hòa được tìm thấy nhiều ở thịt, mỡ và phủ tạng động vật… mới làm cho cholesterol tăng lên nhiều. Trứng cũng là nguồn vitamin và chất khoáng rất tốt, các chất khoáng như sắt, kẽm, đồng, mangan, iod… tập trung hầu hết trong lòng đỏ. Lòng đỏ có cả các vitamin tan trong nước (B1, B6) và vitamin tan trong dầu (vitamin A, vitamin D, vitamin K). Trong lòng trắng chỉ có một ít vitamin tan trong nước (B2, B6). Cả trong lòng đỏ và lòng trắng có chất biotin. Biotin là vitamin B8 là vitamin tham gia vào chu trình sản xuất ra năng lượng để đáp ứng nhu cầu của cơ thể. Trong lòng trắng trứng tươi, chất biotin kết hợp với 1 protein là avidin làm mất hoạt tính của biotin, tạo phức hợp biotin-avidin bền vững và không chịu tác dụng của men tiêu hóa. Khi nấu chín avidin sẽ được giải phóng khỏi phức hợp biotin-avidin. Khi ăn trứng sống có biểu hiện ngộ độc chính là tình trạng thiếu biotin với các dấu hiệu: chán ăn, nôn, viêm lưỡi, viêm kết mạc, viêm móng và quanh móng…
Những kết quả nghiên cứu của Hội Y khoa Hoa Kỳ cho thấy, người bình thường ăn 1-2 quả trứng mỗi ngày sẽ không nguy hại gì cho sức khỏe. TS. Meis Stempfe thuộc Trường đại học Havard của Mỹ kết luận rằng, “Trứng chính là một quà tặng của tự nhiên dành cho con  người”.
Lòng đỏ và lòng trắng trứng có độ đồng hóa khác nhau. Lòng đỏ do độ nhũ tương và phân tán đều các thành phần dinh dưỡng nên ăn sống hoặc chín đều rất dễ đồng hóa, hấp thu. Các phương pháp nấu nướng thông thường (trừ quá kỹ) không làm giảm giá trị dinh dưỡng của nó.
Lòng trắng trứng khó tiêu và đồng hóa kém là do trong lòng trắng còn có men antitrypsin, ức chế các men tiêu hóa của tụy và ruột, khi đun nóng 800C men này sẽ bị phá hủy. Do vậy cần nấu chín kỹ phần lòng trắng mới được ăn. Trứng là thức ăn quen thuộc và giàu dinh dưỡng, các chất dinh dưỡng lại ở tỷ lệ cân đối, do vậy trứng có thể sử dụng cho cả trẻ em và người lớn. Với trẻ nhỏ từ 5-6 tháng, 1 tuần chỉ nên ăn 3 lần, mỗi lần 1/2 lòng đỏ trứng gà dưới dạng nấu bột hay nấu cháo. Với trẻ trên 7 tháng mỗi ngày có thể ăn 1 quả trứng gà hoặc trứng vịt hoặc 4 quả trứng chim cút. Với người lớn 1 tuần có thể ăn 3-4 lần trứng. Với người bị tăng huyết áp hoặc cholesterol cao trong máu vẫn có thể ăn trứng vì qua những kết quả nghiên cứu của các chuyên gia dinh dưỡng Hoa Kỳ đã khẳng định, ăn trứng không làm tăng huyết áp và cholesterol máu mà trứng có chứa nhiều chất dinh dưỡng có lợi cho sức khỏe con người. Tuy nhiên, với những người có huyết áp cao và mỡ cao trong máu chỉ nên ăn 2-3 lần trứng trong 1 tuần.

“Trái tim có nhịp đập của nó”, nhưng khi trái tim (lúc bình thường) không theo đúng nhịp (nhanh, chậm, loạn nhịp…), hãy coi chừng! Đó có thể là biểu hiện của những chứng bệnh tim không thể coi thường.

Thế nào là nhịp tim bình thường
Tim của người trưởng thành lúc nghỉ ngơi đập từ 60 - 80 lần trong 1 phút. Nếu dưới 55 - 60 lần/phút thì được coi là nhịp tim chậm. Trẻ em có nhịp tim sinh lý nhanh hơn người lớn (từ 110 - 130 nhịp/phút), vì thế, nhịp chậm ở trẻ em là khi tim đập dưới 100 lần/phút.

 Khi nhịp tim chậm coi chừng mắc bệnh nguy hiểm.
Tại sao nhịp tim bị chậm?
Nhịp tim chậm được coi là bình thường ở những người luyện tập thể lực tốt và ở mọi người khi trong giấc ngủ. Nhiều vận động viên thể thao có nhịp tim lúc nghỉ chỉ từ 45 - 60 lần/phút. Nhịp chậm có thể xuất hiện thứ phát sau một số bệnh lý như suy chức năng tuyến giáp, rối loạn dạ dày-ruột, hội chứng hoàng đảm hoặc sau khi sử dụng một loại thuốc nào đó. Bệnh nhân tim mạch (chẳng hạn tăng huyết áp), đang được điều trị bằng các thuốc gây chậm nhịp tim như chẹn bêta giao cảm, chẹn kênh calci có thể có nhịp chậm. Nhịp chậm đôi khi là hậu quả nhất thời của nhồi máu cơ tim. Nhịp chậm thường gặp ở người cao tuổi, có hoặc không chứng xơ vữa động mạch và ở trẻ em mắc một số bệnh tim bẩm sinh.
Triệu chứng
Nhịp tim chậm thường không gây triệu chứng trừ khi dưới 40 - 45 lần/phút. Triệu chứng xuất hiện do cung lượng tim bị giảm, đó là mệt mỏi, khó thở, chóng mặt và thậm chí ngất.
Chẩn đoán
Nhịp tim chậm hơn bình thường có thể xác định đơn giản bằng bắt mạch. Ghi điện tâm đồ giúp phân biệt nhịp chậm là do nghẽn tim (block) hay do nguyên nhân khác.
Điều trị
Nhịp tim chậm không gây triệu chứng thì không cần điều trị. Khi triệu chứng xuất hiện, có thể sử dụng các thuốc làm tăng nhịp tim. Nếu ngất hoặc các triệu chứng nặng vẫn tồn tại sau dùng thuốc, người bệnh cần được cấy máy tạo nhịp tim vĩnh viễn. Trong một số trường hợp, phải ngừng sử dụng các thuốc có tác dụng làm chậm nhịp tim.
Biến chứng
Nhịp tim quá chậm (dưới 30 lần/phút) là một cấp cứu vì nó gây thiếu ôxy não trầm trọng dẫn tới ngất. Nhịp chậm có thể dẫn tới tử vong nếu các biện pháp làm tăng nhịp tim không được thực hiện kịp thời.
Dự phòng

Việc dùng thuốc điều trị bệnh tim mạch và tăng huyết áp cần phải được tuân thủ theo đúng chỉ dẫn của thầy thuốc. Một số trường hợp nhịp chậm nguy hiểm là do chứng nghẽn tim hoặc do cơ tim bị thương tổn khi nhồi máu, vì thế, các biện pháp làm chậm tiến trình xơ vữa động mạch như ngưng hút thuốc lá, kiểm soát huyết áp, tình trạng mỡ máu và luyện tập thể lực thường xuyên tỏ ra có vai trò trong phòng ngừa nhịp tim chậm.

Thứ Ba, 24 tháng 9, 2013

Tăng huyết áp (THA - cao huyết áp) là bệnh thường gặp. THA nếu không được điều trị đúng sẽ gây ra nhiều hậu quả nặng nề. Các nghiên cứu khoa học chứng minh rằng, chế độ ăn và cân nặng đóng vai trò quan trọng trong tiến triển của bệnh THA. Thực hiện chế độ ăn khoa học và hợp lý là biện pháp điều trị không thể thiếu với bệnh nhân THA.

Các nghiên cứu cho thấy, chế độ ăn có thể ảnh hưởng đến huyết áp và chế độ ăn thay đổi có thể giúp kiểm soát, thậm chí có thể phòng THA. Những thay đổi về chế độ ăn nên được lưu tâm và đi vào từng khâu trong tiết chế và thói quen ăn hằng ngày.
Phương pháp ăn uống và tập luyện
Giảm lượng muối natri: Ăn giảm muối giúp hạ huyết áp ở những người huyết áp cao hoặc ở giới hạn bình thường cao. Ăn giảm muối cũng làm giảm tỷ lệ bệnh nhân phải tái nâng liều thuốc hạ áp sau khi đã được phép giảm liều.
Chuyển từ thói quen ăn mặn sang chế độ ăn giảm muối giúp giảm nhẹ huyết áp ở những người huyết áp bình thường. Khi lượng natri đưa vào cơ thể giảm từ 4.000mg xuống còn 2.000mg mỗi ngày thì huyết áp có thể giảm từ 2 - 3mmHg. Trong 7 năm ăn giảm muối, huyết áp có thể giảm đi 10mmHg. Như vậy, ăn giảm muối có thể giúp làm giảm nguy cơ tim mạch.
Ăn nhiều rau quả: Ăn nhiều rau quả hằng ngày có thể làm giảm huyết áp và phòng chống THA. Một nghiên cứu cho thấy, bệnh nhân THA mức độ vừa ăn nhiều rau làm giảm được huyết áp tâm thu nhiều hơn so với khi ăn theo tiết chế bình thường. 
Một trong những thành phần của rau quả có thể gây tác động đến huyết áp là chất xơ. Tăng chất xơ trong khẩu phần ăn có thể làm giảm huyết áp. Nhiều nghiên cứu khoa học cho thấy, nếu ăn trung bình hằng ngày 11,5g chất xơ sẽ làm huyết áp giảm được 1,2 - 1,3mmHg. Nên ăn từ 20 - 35g chất xơ mỗi ngày. Ngũ cốc là nguồn cung cấp chất xơ rất quan trọng trong khẩu phần ăn hằng ngày.
Cá nước ngọt: Tăng lượng cá nước ngọt trong khẩu phần ăn hằng ngày có thể giúp hạ huyết áp. Phối hợp với biện pháp giảm cân nặng làm hạ huyết áp được nhiều hơn. Trong một nghiên cứu khoa học cho thấy, ăn nhiều cá và giảm cân nặng làm huyết áp 133/77mmHg giảm xuống 119/68mmHg.
Cà phê: Là loại đồ uống có thể làm tăng nhẹ huyết áp cho dù tác dụng này chỉ là tạm thời. Dùng cà phê vừa phải không gây nguy cơ THA trong phần lớn các trường hợp. Nghiện cà phê có thể làm THA vừa phải ở một số bệnh nhân. Phân tích tổng hợp 18 nghiên cứu khoa học cho thấy, uống cà phê làm huyết áp tâm thu tăng 1,2mmHg và huyết áp tâm trương tăng 0,49mmHg. Huyết áp giảm xuống sau khi bỏ thói quen uống cà phê hằng ngày.
Tập thể dục: Tập thể dục có thể làm giảm huyết áp từ 5 - 15mmHg. Để có được hiệu quả này cần phải tập thường xuyên và kéo dài. Ngừng tập luyện có thể làm cho huyết áp tăng trở lại. Cần lưu ý rằng, bên cạnh tập thể dục thường xuyên, các động tác đi lại, hít thở sâu… có thể giúp tiêu hao 100 - 800 calo mỗi ngày.
Cân nặng có ảnh hưởng tới huyết áp?
Thừa cân gây nguy cơ THA và các bệnh tim mạch khác phối hợp với THA. Cùng với tuổi, tăng cân dần dần trong cuộc sống dường như góp phần làm THA ở những người có tuổi. Giảm cân là kết quả đạt được của nhiều biện pháp không dùng thuốc phối hợp, ví dụ giảm calo trong khẩu phần ăn, tăng cường luyện tập thể dục, hạn chế bia rượu…
Hiệu quả của giảm cân nặng đối với huyết áp: Thừa cân làm THA và làm cho khó kiểm soát huyết áp ở những bệnh nhân THA. Ngược lại, giảm 1kg cân nặng giúp huyết áp giảm 1mmHg.
Những lợi ích khác của giảm cân: Thêm vào tác dụng hạ áp, giảm cân còn mang lại một số lợi ích khác như giảm cholesterol máu, giảm phì đại tim, giảm nguy cơ mắc bệnh tiểu đường và cải thiện chất lượng cuộc sống.
Duy trì cân nặng ở mức độ hợp lý: Giảm cân có thể khó đạt được và khi đạt được cũng khó duy trì nên việc duy trì cân nặng ở mức độ hợp lý đòi hỏi phải áp dụng nhiều biện pháp phối hợp như tiết chế hằng ngày, không nên sử dụng thức ăn quá béo hoặc nhiều đồ uống có ga, luyện tập thể dục và kiểm tra cân nặng thường xuyên. Nếu có điều kiện, nên đến tư vấn bác sĩ về dinh dưỡng, tim mạch hoặc nội tiết để sức khỏe của chúng ta được chăm sóc tốt hơn.

Huyết áp (HA) là một chỉ số cho biết áp lực bơm máu trong cơ thể. Số đo HA được biểu diễn bằng đơn vị mmHg (hay cmHg) - bao gồm 2 thành phần: Trị số HA tâm thu (số ở trên) nói lên khả năng bơm máu của tim, trị số HA tâm trương (số ở dưới) nói lên trương lực của động mạch để duy trì dòng máu chảy trong hệ thống mạch máu.
Bình thường, số đo HA tâm thu dao động từ 90 - 139mmHg và HA tâm trương từ 60 - 89mmHg. Bệnh thA là một bệnh lý trong đó trị số HA lúc nghỉ cao hơn mức bình thường: THA tâm thu đơn thuần khi ≥ 140mmHg, THA tâm trương đơn thuần khi ≥ 90mmHg, hoặc tăng cả hai.
Ðiều chỉnh chế độ ăn và giảm cân nặng được gọi là các biện pháp điều trị không dùng thuốc. Một số biện pháp điều trị không dùng thuốc khác là bỏ thuốc lá, giảm sang chấn tinh thần, bỏ rượu và tập thể dục đều đặn. Các biện pháp điều trị không dùng thuốc khi thực hiện riêng rẽ đều có hiệu quả hạ áp nhưng tác dụng của chúng cao hơn nếu thực hiện một cách đồng thời.

Tăng huyết áp (THA) và đái tháo đường (ĐTĐ) là hai bệnh riêng biệt nhưng tiếc thay, chúng có mối liên quan khá mật thiết với nhau, thường đi song hành với nhau: đã mắc bệnh ĐTĐ thì rất dễ bị THA và ngược lại. Còn khi đã mắc cả hai thì nguy cơ biến chứng rất cao và gây khó khăn trong việc chữa trị bệnh.

Tăng biến chứng ở người vừa THA vừa ĐTĐ
Theo nhiều nghiên cứu, người ta thấy rằng THA và ĐTĐ thường kết hợp với nhau và tỷ lệ bệnh luôn tăng theo lứa tuổi. Tỷ lệ bệnh THA ở ĐTĐ týp 2 tăng 2,5 lần so với người không ĐTĐ. Ngược lại, khoảng 50% bệnh nhân ĐTĐ đồng thời bị THA (25% ở người trẻ và 75% người luống tuổi). Theo một nghiên cứu trên các phụ nữ bị THA, sau khi đã loại bỏ các tác động như hút thuốc, nghiện rượu, cân nặng, tiền sử gia đình và một số yếu tố khác, người ta thấy rằng: phụ nữ bị THA sẽ gia tăng nguy cơ mắc ĐTĐ týp 2 gấp 3 lần so với phụ nữ có trị số huyết áp bình thường. 

Tăng huyết áp và đái tháo đường có liên quan mật thiết với nhau.
THA góp phần quan trọng làm tăng mức độ nặng, tăng mức độ tàn phế và tỷ lệ tử vong của người bệnh ĐTĐ. Theo nghiên cứu Whitehall ở Anh theo dõi trong 10 năm, nguy cơ tử vong do bệnh tim mạch ở bệnh nhân ĐTĐ có THA tăng gấp đôi người ĐTĐ không THA. Ngược lại, ĐTĐ cũng làm cho THA trở nên khó điều trị hơn. THA kéo dài sẽ làm tổn thương các mạch máu nhỏ và các mạch máu lớn, nếu không được điều trị sẽ gây ra các bệnh lý ở mắt, thận, tim mạch và có thể dẫn đến tai biến mạch máu não.
Chẩn đoán là THA ở người ĐTĐ khi mức huyết áp tối đa ≥ 140mmHg hoặc/và huyết áp tối thiểu ≥ 90mmHg. Trên bệnh nhân ĐTĐ týp 1, THA thường đi kèm bệnh lý thận. Trên bệnh nhân ĐTĐ týp 2, THA có thể cùng xuất hiện với các yếu tố nguy cơ của bệnh lý tim mạch, các yếu tố này đều có cùng một rối loạn tiềm ẩn là đề kháng insulin và tăng insulin máu. Đặc điểm THA ở người ĐTĐ là tỷ lệ THA tâm thu đơn độc rất cao. Riêng ĐTĐ týp 2, THA gặp ở nữ nhiều hơn nam và huyết áp tâm thu tăng theo tuổi ở nữ chậm hơn. Ngoài mức độ thường gặp cao, bản thân THA làm tăng mạnh các yếu tố nguy cơ vốn đã tăng ở bệnh nhân ĐTĐ. ĐTĐ làm tăng nguy cơ bệnh lý mạch vành gấp 2 lần ở nam và 4 lần ở nữ. Khi mắc cả THA và ĐTĐ sẽ làm tăng gấp đôi biến chứng mạch máu lớn và nhỏ và làm tăng gấp đôi nguy cơ tử vong khi so với bệnh nhân THA nhưng không bị ĐTĐ.
Do tầm quan trọng của mức huyết áp đối với bệnh nhân ĐTĐ nên khi phát hiện THA, các chuyên gia tim mạch khuyên nên làm thêm các xét nghiệm như: siêu âm doppler động mạch cảnh, động mạch thận, động mạch 2 chi dưới; siêu âm tim (đánh giá phì đại thất trái, chức năng tâm trương…); tìm microalbumine trong nước tiểu; soi đáy mắt; khám bàn chân; đo chỉ số huyết áp tâm thu còn gọi chỉ số huyết áp cổ chân/cánh tay (ABI: Ankle Brachial Index). Nếu có điều kiện, có thể theo dõi huyết áp trong 24 giờ (Holter huyết áp 24 giờ).

Thứ Hai, 23 tháng 9, 2013

Đột quỵ hay còn gọi là tai biến mạch máu não (TBMMN) là tình trạng một phần não bị hư hại đột ngột do mất máu nuôi dưỡng do tắc hoặc vỡ mạch máu não. Khi thiếu máu lên não, các tế bào não sẽ ngưng hoạt động và sẽ chết đi trong vài phút. Hậu quả là các vùng cơ thể do phần não đó điều khiển sẽ ngưng hoạt động, dẫn tới yếu liệt, tê mất cảm giác nửa người, thậm chí hôn mê… Do vậy, chăm sóc sau đột quỵ là việc làm vô cùng quan trọng giúp người bệnh có thể bình phục và phòng tránh tái phát.

Nguyên nhân gây đột quỵ
Mạch máu não bị tắc do mảng xơ mỡ đóng ở thành mạch dày lên dần, làm hẹp lòng mạch; Xuất hiện cục máu đông di chuyển từ tim do tim bị bệnh loạn nhịp hoặc bệnh hẹp - hở van tim khiến máu ứ lại, đóng thành cục máu đông trong tim, sau đó chảy lên não làm kẹt lại gây tắc mạch máu não; Xuất huyết não (mạch máu bị vỡ làm chảy máu, chèn ép não bộ) và xuất huyết khoang dưới nhện (mạch máu bị phình rồi vỡ ra làm máu chảy vào khoang trống bao quanh não) cũng là nguyên nhân dẫn đến đột quỵ.

 Cục máu đông làm tắc mạch máu não gây đột quỵ.
Người cao tuổi, người bị tăng huyết áp, đái tháo đường, vữa xơ động mạch, rối loạn lipid máu, các bệnh mạch vành, van tim, loạn nhịp tim, hút thuốc lá, béo phì-thừa cân, lười vận động… là những đối tượng dễ bị đột quỵ.
Nếu thấy người bệnh có dấu hiệu ngã thì cần đỡ họ ngay tránh để họ bị va đập, sau đó để bệnh nhân nằm nghiêng qua một bên, nếu có nôn thì móc hết đờm dãi khai thông đường thở. Sau đó đưa ngay đến cơ sở y tế càng nhanh càng tốt, không nên xoa dầu cao hay tự ý cho bệnh nhân dùng thuốc.
Giúp bệnh nhân phục hồi bằng chế độ ăn và tập luyện hợp lý
Cần cho bệnh nhân ăn đủ chất nhưng với một lượng thích hợp. Nên chọn thực phẩm ít cholesterol và nhiều đạm thực vật (đậu đỗ, đậu tương, đậu phụ) và đạm động vật (cá biển, cá đồng, sữa, thịt nạc...). Lượng protein cần giữ ở mức 0,8g/kg cân nặng/ngày. Chất béo nên giữ ở mức 25-30g/ngày. Bổ sung lượng vitamin và chất khoáng có trong các loại hoa quả chín, rau củ, sữa. Bổ sung axit folic ít nhất 300mcg mỗi ngày sẽ làm giảm 20% nguy cơ đột quỵ và 13% nguy cơ bệnh tim bằng cách ăn các loại quả có vị chua, rau lá xanh, các loại đậu, gạo...
 Thức ăn phải dễ tiêu hóa, hấp thu và ở dạng mềm, lỏng như súp, cháo, sữa. Cần phân bố đều 3-4 bữa/ngày, không nên ăn quá no. Tránh dùng thức ăn lên men, gây kích thích như gia vị cay, nóng, rượu, chè, cà phê…; Giảm muối và nước. Tránh các loại thức ăn chế biến sẵn nhiều muối như dưa, cà, hành muối, bánh mỳ, thịt hun khói… Tránh tăng cân.
Cần đổi tư thế nằm của bệnh nhân mỗi giờ để chống loét. Xoa bóp bắp cơ, vận động các khớp tay và chân cho bệnh nhân để máu lưu thông và tránh cứng khớp, teo cơ. Tập vận động để giúp hồi phục nhanh. Sau khi xuất viện, tập vận động tại nhà hoặc có thầy thuốc chuyên khoa vật lý trị liệu hướng dẫn. Cố gắng cho bệnh nhân tự làm các hoạt động sinh hoạt hàng ngày với sự trợ giúp của thân nhân để có thể hồi phục sớm. Và đặc biệt, bệnh nhân cần uống thuốc đầy đủ theo chỉ dẫn của bác sĩ và tái khám đúng hẹn.

Lượng cholesterol trong máu cao là một trong nguyên nhân dẫn đến xơ vữa động mạch. Ăn uống hợp lý sẽ cải thiện tốt tình trạng xơ vữa động mạch.Bệnh xơ vữa động mạch (xơ mỡ động mạch, xơ cứng động mạch) xảy ra khi có quá nhiều cholesterol trong cơ thể bám vào thành mạch máu, sau đó các chất như canxi, sợi huyết (fibrin)…

Làm gì để giảm lượng cholesterol trong máu?
Giảm lượng cholesterol trong máu sẽ làm chậm lại quá trình hình thành các mảng cholesterol ở thành động mạch, thậm chí có khi giúp làm tan bớt các mảng này khi chúng đã hình thành. Một người đàn ông có cholesterol cao từ 200 - 240mg%, nếu điều chỉnh chế độ ăn một chút chỉ cần làm giảm được 1/10 lượng cholesterol thì đã giảm được 50% nguy cơ bị nhồi máu cơ tim (tức giảm được một nửa nguy cơ mắc bệnh).
Nguyên tắc chung để giảm cholesterol bằng phương pháp không dùng thuốc là ăn thức ăn chứa ít chất béo bão hòa và cholesterol, tập thể dục nhiều hơn và giảm cân nếu cần thiết.
Lượng cholesterol trung bình cần tiêu thụ mỗi ngày cho một người là từ 220 - 260mg đối với phụ nữ, và khoảng 360mg đối với đàn ông. Trung bình trong tổng số calori ta cần thì chất béo nói chung cung cấp 34%, trong đó chất béo bão hòa cung cấp 12%.

Rau câu có nhiều acid alginic phân giải chất béo thừa
Chế độ ăn về chất béo đối với người có cholesterol máu cao:
Bước 1: dùng ít hơn 30% tổng số calori từ các loại chất béo nói chung và ít hơn 10% tổng số calori từ chất béo bão hòa, và tiêu thụ ít hơn 300mg cholesterol mỗi ngày.
Bước 2: dùng ít hơn 30% tổng số calori từ các loại chất béo nói chung và ít hơn 7% tổng số calori từ chất béo bão hòa, và tiêu thụ ít hơn 200mg cholesterol mỗi ngày.
Dùng những thực phẩm gì?
Một khẩu phần ăn nói chung để giảm cholesterol là giảm lượng chất béo và giảm lượng cholesterol tiêu thụ mỗi ngày. Đồng thời, dùng nhiều thức ăn có chứa những chất làm giảm cholesterol LDL, làm tăng cholesterol HDL.
Chẳng hạn, rau câu có nhiều acid alginic xử lý phân giải chất béo quá thừa; các loại nấm, mộc nhĩ có chất sitosterin tác dụng ngăn chặn xơ cứng động mạch, nên ăn dưới dạng canh. Những thực phẩm lên men như xì dầu có chứa acid lino-neic và lexitin (acid béo không no).
Hãy ăn thực phẩm có nhiều carbohydrate-phức (hấp thu chậm) và nhiều chất xơ.
Khi ăn ít chất béo và nhiều rau quả, ngũ cốc nguyên hạt bệnh nhân sẽ tiêu thụ ít calori hơn và sẽ giảm cân.
Thực phẩm có nhiều chất xơ, và nhất là chất xơ hòa tan có khả năng làm giảm nồng độ cholesterol; vì chúng làm quá trình hấp thu cholesterol qua ruột chậm lại. Nhiều thức ăn có nguồn gốc thực vật như các loại đậu khô đã nấu chín, đậu Hòa Lan, đậu rồng, măng tây, táo, lê, đậu nành, đậu hũ cung cấp một lượng lớn chất xơ hòa tan. Cà rốt, củ cải cũng chứa pectin (một dạng chất xơ hòa tan).
Lòng đỏ trứng chứa 200mg cholesterol và 5mg chất béo, trong đó có 2mg chất béo bão hòa và 3mg chất béo chưa bão hòa. Các kết quả nghiên cứu cho thấy ăn trứng mỗi ngày có thể tăng nồng độ HDL đối với một người lớn khỏe mạnh. Lòng trắng trứng không có chất béo hay cholesterol. Trứng cũng là một nguồn cung cấp khá tốt protein, chất sắt và các chất bổ dưỡng khác. Do đó, người cao cholesterol vẫn có thể nên dùng trứng từ 4  quả trở xuống trong một tuần. Còn người khỏe mạnh có thể dùng nhiều hơn.
Người tăng cholesterol không nên dùng dầu cọ, dầu dừa, dầu hướng dương, dầu bắp vì chúng chứa nhiều acid béo đa chưa bão hòa, có thể bị oxy hóa dễ dàng và gây ra các mảng cholesterol ở thành mạch máu. Đối với các loại dầu này bệnh nhân không nên dùng quá 10% tổng số calori trong ngày.
Người tăng cholesterol nên dùng dầu phộng, dầu olive, vì chúng chứa chất béo đơn chưa bão hòa; những chất béo này có khả năng chống oxy hóa, do đó chống được quá trình oxy hóa LDL trong máu.
Dầu cá còn gọi là acid omega-3, cũng có tác dụng làm giảm cholesterol vì nó làm tăng lượng HDL (High Density Lipoprotein); những loại cá chứa nhiều acid omega-3 là cá thu, cá hồi, cá ngừ, cá trích, cá sardine…
Những vitamin làm tăng HDL là beta caroten, vitamin C, vitamin E, những vitanin có nhiều trong rau quả tươi, giá sống, gạo nguyên hạt…

Thứ Sáu, 20 tháng 9, 2013

Tăng huyết áp (THA) là một trong những căn bệnh rất thường gặp hiện nay. Bệnh rất nguy hiểm vì có thể dẫn đến đột quỵ, suy thận, suy tim... Để điều trị THA, bên cạnh việc uống thuốc đều đặn, tập thể dục thường xuyên, bỏ thuốc lá và hạn chế bia rượu, một chế độ dinh dưỡng hợp lý sẽ giúp kiểm soát huyết áp (HA) tốt và giảm nguy cơ bị biến chứng tim mạch cho người bệnh. Đặc biệt, hằng ngày người bệnh cần dùng nhiều rau, trái cây: nên dùng hơn 400g rau và hơn 200g trái cây mỗi ngày.


Mảng xơ vữa làm động mạch hẹp là nguyên nhân gây bệnh tăng huyết áp.
Cần tây: Các nghiên cứu hiện đại cho thấy, nước ép cần tây có tác dụng làm giãn mạch, lợi niệu và hạ HA. Cần  tây dùng loại càng tươi càng tốt, rửa thật sạch, giã nát rồi ép lấy nước (nếu có máy ép thì càng tốt). Chế thêm một chút mật ong, mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 40ml.
Hành tây: trong thành phần không chứa chất béo, có khả năng làm giảm sức cản ngoại vi, đối kháng với tác dụng làm THA của catecholamine, duy trì sự ổn định của quá trình bài tiết muối natri trong cơ thể nên làm giảm HA. Ngoài ra, vỏ hành tây còn chứa nhiều rutin rất có lợi cho việc làm vững bền thành mạch, dự phòng tai biến xuất huyết não.
Cải cúc: là loại rau thông dụng, có hương thơm chứa nhiều acid amin và tinh dầu, có tác dụng làm thanh sáng đầu óc và hạ HA nên rất thích hợp với người bị THA có kèm theo đau và nặng đầu. Người THA nên dùng làm rau ăn hằng ngày hoặc ép lấy nước cốt uống, mỗi ngày khoảng 50ml, chia 2 lần sáng, chiều.
Nấm hương và nấm rơm: là những thực phẩm giàu chất dinh dưỡng nhưng lại có khả năng phòng chống xơ vữa động mạch và hạ HA, rất thích hợp cho người bị THA.
Mộc nhĩ: mộc nhĩ đen hay mộc nhĩ trắng đều là những thực phẩm rất có lợi cho người bị THA. Hằng ngày, người mắc THA có thể dùng mộc nhĩ trắng 10g hoặc mộc nhĩ đen 6g, nấu nhừ rồi chế thêm 10g đường phèn ăn trong ngày. Khi có biến chứng xuất huyết đáy mắt thì đây là loại thức ăn lý tưởng.
Rau  muống: chứa nhiều canxi, rất có lợi cho việc duy trì áp lực thẩm thấu của thành mạch và HA trong giới hạn bình thường, là thứ rau đặc biệt thích hợp cho người bị THA có kèm theo triệu chứng đau đầu.
Cà rốt: có tác dụng làm mềm thành mạch, điều chỉnh rối loạn lipid máu và ổn định HA. Nên dùng dạng tươi, rửa sạch, ép lấy nước uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần chừng 50ml. Đây là thứ nước giải khát đặc biệt tốt cho người bị THA có kèm theo tình trạng đau đầu, chóng mặt.
 Đậu Hà Lan và đậu xanh: là hai loại thực phẩm rất có lợi cho người bị THA. Hằng ngày, người THA có thể dùng giá hoặc đậu Hà Lan, rửa sạch rồi ép lấy nước uống hoặc dùng làm rau ăn thường xuyên. Theo kinh nghiệm dân gian, dùng đậu xanh hầm với hải đới hoặc đậu xanh và vừng đen sao thơm, tán bột ăn mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 50g để phòng chống THA.
Dinh dưỡng kiểm soát huyết áp 2
Các loại đậu là thực phẩm tốt cho người THA.
Sữa đậu nành: là đồ uống lý tưởng cho người bị THA, có công dụng phòng chống xơ vữa động mạch, điều chỉnh rối loạn lipid máu và hạ HA. Mỗi ngày, người THA nên dùng 1.000ml sữa đậu nành pha với 100g đường trắng, chia uống vài lần trong ngày.
Cà chua: có công dụng thanh nhiệt giải độc, lương huyết bình can và hạ HA. Nó là thực phẩm rất giàu vitamin C và P, nếu ăn thường xuyên mỗi ngày 1- 2 quả cà chua sống sẽ có khả năng phòng chống THA rất tốt, đặc biệt là khi có biến chứng xuất huyết đáy mắt.
Cà tím: là thực phẩm rất giàu vitamin P, giúp cho thành mạch máu được mềm mại, dự phòng tích cực tình trạng rối loạn vi tuần hoàn hay gặp ở người bị THA và các bệnh lý tim mạch khác.
Cần giảm bớt các món mặn, nhiều muối
Với người THA, mỗi ngày nên ăn ít hơn 6g muối (bình thường mỗi người dùng 4.000 - 6.000mg natri/ngày - khoảng từ 10g - 15g muối). Chế độ dinh dưỡng giảm mặn sẽ giúp giảm được từ 2 - 8mmHg huyết áp.
Hạn chế các chất béo làm tăng lượng mỡ xấu cơ thể như: da, tim, cật, gan, óc động vật. Nên dùng chất béo thực vật.
Không nên dùng rượu, bia (nếu dùng thì chỉ ở mức độ vừa phải) sẽ giúp giảm được từ 2 - 4mmHg huyết áp.
Hoạt động thể lực đều đặn như đi bộ chừng 30 phút/ngày, giúp giảm từ 4 - 9mmHg huyết áp. Người bệnh cần có đời sống thoải mái về tinh thần, tránh lo âu, căng thẳng...
Design by Hao Tran | Blogger Theme by Sức khỏe sinh sản -